18
11 2009
Luật sư
Xin giới thiệu một bài viết khá hay
về nghề luật và nghề luật sư. Xin lưu ý, bài viết này dựa trên các văn bản luật
cũ về nghề luật sư, bạn có thể cập nhật thông qua các văn bản đã thay thế. Tuy
nhiên, về nội dung cơ bản là không thay đổi.
Rất nhiều người tự hào giới thiệu mình làm nghề luật. Khi
nghĩ suy về nghề luật trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chúng ta cần xác
định rõ nghề luật là gì?
1. Nghề luật
Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là
chúng ta nói đến thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, công chứng viên…
Thẩm phán được hiểu là những người làm việc tại Toà án, được
quyền nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ án. Thẩm phán – ở nghĩa lý tưởng được
hiểu là người được quyền ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công bằng cho
mọi người, cứu người vô tội và trừng phạt kẻ ác.
Kiểm sát viên là người buộc tội tại phiên toà (ở nước ngoài
thường được gọi là công tố viên). Họ được quyền đưa một vụ phạm pháp ra xem xét
để xử lý, ra lệnh bắt giữ, tham gia điều tra vụ án, truy tố người phạm tội.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo
quy định của pháp luật của mỗi quốc gia, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu
của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật sư là những người hành nghề trong Văn phòng
hoặc Công ty luật. Thu nhập của luật sư là từ các khoản thù lao do khách hàng
trả.
Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng,
có quyền xác nhận tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng…
Nếu hiểu nghề luật như là nghề kiếm sống có liên quan đến
luật, có thể kể ra nhiều công việc khác cũng được gọi là nghề luật như: chấp
hành viên, điều tra viên, giám định viên, chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý,
giáo viên dạy luật, cán bộ nghiên cứu pháp luật… trong các cơ quan thi hành án
dân sự, cơ quan công an, cơ quan hành chính Nhà nước, các tổ chức đoàn thể,
doanh nghiệp, trường học, viện nghiên cứu… . Ở nghĩa rộng, chúng ta thấy nghề
luật thật phong phú và đa dạng và trong xã hội pháp quyền, tất cả các nghề luật
đều cần được tôn vinh một cách xứng đáng.
2. Nghề luật sư
Ở nghĩa hẹp hơn, nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề
luật sư. Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ
nhất những đặc trưng của nghề luật.
Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì
ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc
hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là
một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến
kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.
Trong suy nghĩ của chúng ta, hoạt động nghề nghiệp của luật
sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
(i) Tính chất trợ giúp: Do sự phát triển không đồng đều cả
về đời sống vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư
cũng tồn tại những người rơi vào vị thế thấp kém so với mặc bằng xã hội như
người nghèo, người già đơn côi, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của
gia đình. Những người ở vào vị thế thấp kém này thường bị ức hiếp, bị đối xử
bất công trái pháp luật và rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của những người khác và
đặc biệt cần sự trợ giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư.
Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng ra bênh vực, trợ giúp
các đối tượng bị ức hiếp được xã hội tôn vinh như là các “hiệp sỹ”. Ngày nay,
xã hội loài người đã phát triển nhưng ở nhiều nước, ở nhiều địa phương vẫn tồn
tại những người ở vào vị thế thấp kém, vẫn tồn tại sự ức hiếp, sụ đối xử bất
công. Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là
bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
(ii) Tính chất hướng dẫn: Tính chất nghề nghiệp đòi hỏi luật
sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện hành mà còn hiểu biết cả tinh thần, nội
dung những quy định của pháp luật ở từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật
sư còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư như vậy, cho nên mỗi khi
bản thân hoặc gia đình có điều gì vướng mắc đều tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư
vấn. Vì vậy, hoạt động của luật sư luôn luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu
của hoạt động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của
pháp luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và
đạo lý.
(iii) Tính chất phản biện: Tính chất phản biện trong hoạt
động của luật sư là những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm
của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông
thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Điều 36,
khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ
sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác
định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ”.
Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp
lý và đạo lý. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã
hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải
trái, đúng sai…từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ
cái sai, bảo vệ công lý.
Ở đây có thể có câu hỏi đặt ra là trong trường hợp không
phát biện ra điều gì sai, không có cơ sở để phản biện thì luật sư sẽ làm gì?.
Xin nêu một câu ngạn ngữ phương Tây: “Luật sư chỉ giỏi khi gặp Công tố viên
tồi”. Câu ngạn ngữ này có nghĩa là khi người tiến hành tố tụng hoạt động hoàn
toàn đúng pháp luật với những nhận định và kết luận chuẩn xác thì không còn chỗ
cho luật sư phản biện. Luật sư không còn chỗ để phản biện, cũng giống như thầy
thuốc không có bệnh nhân để chữa thì thật là hạnh phúc.
Hoạt động của luật sư trong trường hợp này chỉ còn ý nghĩa
là người chứng kiến. Việc chứng kiến của luật sư không phải là không quan
trọng. Trong nhiều trường hợp, sự hiện diện của luật sư là chỗ dựa tin cậy của
bị can, bị cáo. Sự chứng kiến của luật sư trong khi hỏi cung, khi đối chất, khi
xét xử đảm bảo chắc chắn rằng quyền và lợi ích hợp pháp mà pháp luật dành cho
bị can, bị cáo sẽ được bảo đảm.
Người phạm tội phải chịu sự trừng phạt của pháp luật, nhưng
không thể bị tra tấn, đánh đập, hành hạ về thể xác cũng như xúc phạm nhân phẩm.
Sự có mặt của luật sư là cần thiết bởi những người đã lâm vào vòng lao lý, phải
đối mặt với uy lực của cơ quan công quyền, không phải ai cũng có đủ can đảm tự
bảo vệ quyền hợp pháp của mình. Người xưa đã có câu: “Khôn ngoan đến cửa quan
mới bíết”.
Do vai trò và tác dụng của hoạt động luật sư, nên Khoản 2
Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã nêu rõ: “Bằng hoạt động của mình luật sư
góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nghị
quyết 08 của Bộ Chính trị viết: “Các cơ quan Tư pháp có trách nhiệm tạo điều
kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, bị
cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh luận dân chủ tại phiên toà…”
Xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi
luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sư còn phải là người
có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo
đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã
hội .
II.Nghề luật sư trong quá khứ
Nghề luật sư luôn gắn với sự hình thành và phát triển của hệ
thống pháp luật. Có thể nói luật gia đầu tiên xuất hiên trong xã hội chính là
nhà lập pháp, người định ra các quy phạm pháp luật. Sau đó là sự xuất hiện của
các thẩm phán, người có nhiệm vụ bảo đảm cho các quy phạm pháp luật được tôn
trọng và cũng là người quyết dịnh hình phạt đối với người vi phạm các quy phạm
pháp luật.
Lúc đầu, chứng cứ của hành vi vi phạm pháp luật chỉ dựa vào
sự suy đoán hay những lời thề thốt, thú nhận của các bên có liên quan. Việc bào
chữa, biện hộ cho các bên chưa được bảo đảm. Nghề luật sư xuất hiện, luật sư
tham gia vào quá trình xét xử, đảm bảo công việc bào chữa trong các phiên toà.
Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã
cổ đại. Vào thế kỷ V trước Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà
án hình thành và việc xét xử có sự tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo hoặc
bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Toà hoặc nhờ người khác
có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà. Việc bào chữa xuất phát
tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị nhà cầm quyền bắt giam vô
cớ và trừng phạt một cách độc đoán dần phát triển.
Ở La Mã cổ đại, cũng với sự xuất hiện của pháp luật đã xuất
hiện những mầm mống của nghề luật sư. Pháp luật La mã cổ đại mang tính huyền
bí, thần thánh và việc áp dụng pháp luật gắn liền với lễ nghi tôn giáo. Trong
phiên toà, có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am hiểu pháp luật để
nhắc lại những quy tắc, quy định tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi
phạm thủ tục tố tụng.
Trong xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu,
am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt
động nghề nghiệp. Hoạt động của các luật sư được chấp nhận và uy tín của họ
trong xã hội ngày càng được nâng cao. Nghề luật sư được xem như một nghề vinh
quang trong xã hội.
Sau khi Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ
Trung cổ với các triều đại phong kiến phân quyền cát cứ. Tổ chức Toà án và chế
độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục
đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến.
Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với
những điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một số ít người xuất
thân từ giai cấp bóc lột. Từ xuất phát điểm của những người tự nguyện thực hiện
việc bào chữa vì sự thật và công lý, nghề luật sư dưới chế độ tư bản dần dần
trở thành nghề tự do, nghề làm vì tiền.
Ở Việt Nam, từ năm 1930 trở về trước, người Pháp chiến độc
quyền trong hành nghề luật sư. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của Toàn quyền Đông
Dương, thực dân Pháp tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn cho những
người đã tốt nghiệp luật khoa và đã tập sự 5 năm trong một Văn phòng biện hộ
của luật sư thực thụ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư. Quyền bào chữa của
bị can, bị cáo được ghi nhận ngay trong Sắc lệnh về Toà án ngày 13/9/1945 của
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do hoàn cảnh kháng
chiến, một số luật sư tham gia cách mạng, một số luật sư chuyển sang hoạt động
ở lĩnh vực khác, nghề luật sư thời kỳ này hầu như không được chú trọng.
Sau hoà bình lập lại, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo
đã được Hiến pháp 1959 quy định, năm 1963, Văn phòng luật sư thí điểm được
thành lập lấy tên là Văn phòng luật sư Hà Nội.
III.Nghề luật sư hiện tại: Vấn đề
xây dựng một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng.
Luật sư ở nước ta hiện nay còn đang thiếu và mới chỉ đáp ứng
một phần nhỏ nhu cầu của xã hội. Thống kê cho thấy chỉ khoảng dưới 10% vụ án có
luật sư. Số luật sư lại chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn (riêng ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 50 % tổng số luật sư toàn quốc). Luật sư còn
rất thiếu ở vùng sâu, vùng xa.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và
hoà mình vào dòng chảy toàn cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật
về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở
pháp lý cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của
đội ngũ luật sư. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu cấp
bách là đất nước cần có một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng. Nghĩ về nghề
luật sư hôm nay, chúng ta thấy nổi lên hai vấn đề chính đó là vấn đề đạo đức
nghề nghiệp và vấn đề nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của luật sư.
(i) Đạo đức nghề nghiệp của luật sư: Khi bàn về đạo đức nghề
nghiệp luật sư, có nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trong
xã hội nghề nào cũng đòi hỏi người làm nghề phải có lương tâm, trách nhiệm đối
với nghề của mình trước xã hội. Bởi vậy không cần phải đặt đạo đức nghề nghiệp
luật sư thành vấn đề riêng. Ý kiến khác lại cho rằng, trong thời buổi kinh tế
thị trường, mọi nghề trong xã hội đều mang tính cạnh tranh và nhằm thu lợi
nhuận cao nhất. Nghề luật sư là một nghề giống như các nghề khác, cũng phải
chịu sự chi phối của quy luật thị trường do đó đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư
thành một vấn đề riêng biệt là hoàn toàn vô lý.
(ii) Người ta bất cứ làm nghề gì cũng đều phải có lương tâm,
trách nhiệm đối với công việc của mình. Nhưng mỗi ngành nghề khác nhau đều có
tính chất khác nhau, đòi hỏi lương tâm, trách nhiệm, đạo đức của người làm nghề
có sự khác nhau. Nhưng nghề luật sư lại có đặc thù riêng, đó là phải gắn liền
với các lĩnh vực pháp luật của Nhà nước trong khi đó các ngành nghề khác chỉ
quan hệ đến một vài lĩnh vực pháp luật có liên quan mà thôi.
Luật sư là nghề nghiệp đặc thù, đòi hỏi sự “trong sáng về
đạo đức”. Người làm công việc này phải tuân theo những quy tắc đạo đức hành
nghề bắt buộc, có như vậy mới nâng cao được uy tín và vị thế trong xã hội. Tuy
nhiên, giới luật sư Việt Nam lại chưa có những quy định chung này. Hiện chỉ tồn
tại quy tắc riêng lẻ do mỗi đoàn luật sư tự ban hành, áp dụng với các thành
viên của mình. Rõ ràng là cần phải có bộ quy tắc hành nghề luật sư để đưa ra
chuẩn mực điều chỉnh hoạt động của luật sư.
(iii) Theo chúng tôi nghĩ, có thể đưa ra những nguyên tắc
chung sau: Trong đạo đức hành nghề, luật sư phải trung thành với khách hàng,
không tiết lộ thông tin khách hàng cho bất cứ ai, bất cứ cơ quan nào; không
đồng lõa và giúp khách hàng làm những việc sai trái. Liên quan đến việc tiếp
nhận vụ việc từ khách hàng, luật sư phải tuân theo các quy tắc: Không mâu thuẫn
quyền lợi (không đại diện cho hai khách hàng trong cùng một vụ việc có quyền
lợi đối lập). Luật sư phải từ chối các vụ việc không thuộc lĩnh vực của mình và
giúp khách hàng tìm các luật sư có lĩnh vực chuyên môn phù hợp.
Luật sư cũng không
được buôn bán cổ phiếu, không làm ăn chung với khách hàng…
(iv) Nâng cao và đổi mới kỹ năng hành nghề luật sư: Việc
hành nghề của luật sư hôm nay đòi hỏi phải có sự nâng cao và đổi mới về kỹ năng
hành nghề để bắt kịp những yêu cầu của tiến trình đổi mới và hội nhập.
Trong tổng số gần 4.000 luật sư Việt Nam hiện nay, kể cả
luật sư tập sự, chỉ có khoảng 50 người hiểu biết về luật pháp quốc tế, có thể
hỗ trợ doanh nghiệp trong những giao dịch thương mại quốc tế. Song thực sự chỉ
chừng 10-15 luật sư là đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp luật thế giới (Những
tiêu chuẩn pháp luật thế giới được hiểu là các kiến thức pháp luật chung, uy
tín, khả năng tranh tụng ở tòa nước ngoài, được khách hàng nước ngoài tin
tưởng, khả năng ngoại ngữ…).
Từ lâu nhiều chuyên gia đã cảnh báo rằng Việt Nam cần phải
có một đội ngũ luật sư chuyên về hội nhập kinh tế thế giới, nếu không doanh
nghiệp trong nước dễ lâm vào tình trạng “kiếm củi 3 năm đốt 1 giờ”. “Vấn đề ở
đây là hội nhập toàn cầu, nếu doanh nghiệp không được trang bị tốt những kiến
thức về luật lệ chung của thế giới, những rào cản, sân chơi riêng của từng quốc
gia… thì sẽ dễ vấp những vụ tranh tụng dẫn đến thua kiện, phá sản, mất thị
trường nhanh chóng.
Nhiều vụ việc tranh chấp đã xảy ra như vụ Bỉ bắt giữ Phó
giám đốc Công ty Afiex Bửu Huy theo yêu cầu của Mỹ, sự cố tàu Cần Giờ bị
Tanzania bắt giữ, Hàng không VN thua kiện tại Italy…, chính là hậu quả của tình
trạng ngại trang bị kiến thức pháp luật quốc tế thông qua luật sư trong giới
doanh nghiệp, cũng như thể hiện sự yếu và thiếu của đội ngũ luật sư trong nước.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy chất lượng đội ngũ luật sư
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc
tế. Hệ thống pháp luật không rõ ràng, đồng bộ, thiếu; cơ chế tranh tụng tại tòa
khá mới mẻ so với luật sư Việt Nam; thiếu luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực
đầu tư, kinh doanh, thương mại như sở hữu trí tuệ, tài chính ngân hàng, bảo
hiểm, hàng hải, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế…
Trên thực tế, các luật sư Việt Nam tham gia rất hạn chế
trong giải quyết các vụ kiện có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Đa phần luật
sư của chúng ta chỉ tham gia bào chữa tại các phiên toà xử các vụ án dân sự,
hình sự, lao động, kinh tế và các quan hệ khác ở trong nước. Việc tham gia giải
quyết những tranh chấp có yếu tố nước ngoài đối với luật sư Việt Nam hiện đang
còn những khó khăn.
Nguyên nhân của tình trạng này là do việc định hướng đào tạo
đội ngũ luật sư về kinh tế, thương mại, vận tải, dịch vụ quốc tế có thể nói là
yếu và rất hạn chế. Bên cạnh đó, đối với các luật sư Việt Nam có một cái rào
cản rất lớn là ngoại ngữ. Hiện những luật sư thông thạo ngoại ngữ để có thể
tham gia các vụ kiện quốc tế mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Bộ Tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đang có
kế hoạch để đào tạo, chuẩn bị cho đội ngũ luật sư Việt Nam có thể tham gia vào
được các vụ kiện, các vụ tranh chấp quốc tế giữa các doanh nghiệp, cơ quan, tổ
chức Việt Nam với các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức nước ngoài. Vấn đề đặt ra
là phải làm gì để tới đây, chúng ta có thể chủ động và khẳng định được vai trò
của mình trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo chúng tôi cần phải làm rất nhiều việc, cần phải có
những biện pháp tổng thể nhưng trước mắt có thể thực hiện ngay hai việc sau:
Thứ nhất, trong các lớp đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, ngoài nội dung
có tính chất kỹ năng nghề nghiệp thì phải cung cấp thêm những kiến thức như:
thương mại, tư pháp quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các vụ tranh chấp và những
vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài…. Thứ hai, hiện nay chúng ta có nhiều
văn phòng luật sư, công ty luật sư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam.
Thông qua hợp tác và thực tập tại các văn phòng này, các luật sư Việt Nam sẽ có
điều kiện học hỏi, trao đổi và tham gia vào các vụ việc giải quyết tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, như chúng ta biết, Bộ Tư pháp đang
xây dựng đề án trình với Chính phủ để chọn lựa một số luật sư giỏi, có khả năng
ngôn ngữ để gửi đi đào tạo ngắn hạn để về phục vụ cho đất nước.
IV.Trong tương lai: Luật sư cần phải
làm gì?
Theo đánh giá sơ bộ, Việt Nam phải có được từ 18.000 tới
20.000 luật sư hành nghề, tức là gấp 5 lần số luật sư hiện nay. Không thể có
phép mầu nào thực hiện được điều này một cách nhanh chóng, theo suy nghĩ của
chúng tôi, lộ trình đào tạo để có được một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng
phải qua hàng chục năm. Trước mắt, theo chúng tôi trong thời gian sắp tới, mỗi
luật sư cần phải có những định hướng cụ thể cho mình để đáp ứng những yêu cầu
của công cuộc hội nhập và để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống.
(i) Luật sư cần chuyên môn hoá lĩnh vực hoạt động của mình:
Làn sóng thương mại và đầu tư mới đổ vào Việt Nam trong thời gian hậu WTO sẽ
gia tăng mạnh mẽ. Các tranh chấp liên quan đến thương mại và đầu tư chắc chắn
ngày càng nhiều và phức tạp. Do đó để hạn chế rủi ro, doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có ý thức “phòng bệnh” thông qua các luật sư. Điều
này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hoá hoạt động của mình.
Vẫn biết rằng người hành nghề luật sư cần am hiểu về mọi
lĩnh vực pháp luật, nhưng trong xu hướng hội nhập hiện nay các vụ án hình sự và
phi hình sự rất đa dạng, xuất hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống cho nên luật
sư cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Bên thềm
hội nhập, chúng ta cũng không thể đi khác với xu hướng hành nghề của các luật
sư trên thế giới hiên nay.
Luật sư của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law hay
Common Law đều hành nghề theo hướng chuyên môn hoá một lĩnh vực cụ thể. Ở các
nước đó chúng ta không xa lạ gì khi nghe đến tên gọi “luật sư hình sự”, “luật
sư về thừa kế”, “luật sư về hôn nhân & gia đình”, “luật sư về ngân hàng”,
“luật sư về chứng khoán”, “luật sư về bảo hiểm”, “luật sư về bất động sản”,
thậm chí có “luật sư về bồi thường thiệt hại”, “luật sư chuyên về tai nạn giao
thông”….
Khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những
khách hàng mang quốc tịch Việt Nam mà họ còn là khách hàng mang quốc tịch của
nhiều quốc gia khác. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, các luật sư cần chủ động,
linh hoạt hoàn thiện mọi điều kiện hành nghề cần thiết cho bản thân để mở rộng
đối tượng phục vụ cho mình, hướng tới phục vụ cho cả các khách hàng nước là cá
nhân, tổ chức nước ngoài.
(ii) Luật sư cần cập nhật kiến thức pháp luật mới: Luật sư
phải căn cứ vào lĩnh vực chuyên sâu hành nghề của mình là gì để đáp ứng yêu cầu
cập nhật kiến thức pháp luật mới (đặc biệt là pháp luật quốc tế) và các kiến
thức ngoại ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho luật sư hướng tới cơ hội tham gia
tranh tụng tốt tại các phiên toà của các vụ việc có yếu tố nước ngoài hay xét
xử tại nước ngoài. Xu hướng hội nhập buộc các luật sư trẻ của chúng ta phải tự
hoàn thiện đầy đủ các kiến thức chuyên môn cũng như khả năng ngoại ngữ, tin học
để tự tin hành nghề, độc lập tranh tụng tại bất cứ đâu, cho dù nơi xét xử nằm
ngoài biên giới Việt Nam.
Chúng ta sẽ không thể có các luật sư tranh tụng các vụ kiện
kinh doanh – thương mại giỏi trên thương trường quốc tế nếu luật sư của chúng
ta không có khả năng ngoại ngữ lưu loát khi tranh tụng, không hiểu biết về quy
tắc UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan tới GATT, GATS, TRIMS, TRIPS…cũng
như pháp luật của các nước có chủ thể tham gia tố tụng hữu quan . Ngày nay,
hình ảnh nhiều luật sư sử dụng thành thạo các phần mềm ứng dụng của công nghệ
thông tin như truy cập website, gửi nhận thư điện tử, truyền dữ liệu là hình
ảnh, âm thanh…..không còn xa lạ với chúng ta khi nhìn thấy họ tác nghiệp và
hành nghề.
Vì vậy, việc đầu tiên để các luật sư nâng cao kỹ năng tranh
tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi hình sự là yêu cầu chuyên môn hoá
lĩnh vực tranh tụng, hoàn thiện kiến thức chuyên môn, khả năng ngoại ngữ và tin
học trước khi tiếp nhận vụ việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên toà.
Bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, giỏi
chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, tin học luật sư cần phải đổi mới kỹ năng tiếp xúc
và làm việc với khách hàng khi nhận bào chữa hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
họ. Để làm được điều này, các văn phòng luật sư cần chuẩn bị các mẫu giấy tờ rõ
ràng, mang tính chuyên nghiệp, đơn giản mà không mang nặng tính hành chính để
giúp cho việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng được nhanh
chóng, thuận tiện.
Bên cạnh đó, cũng cần công khai Bảng tính mức thù lao, danh
sách các luật sư được chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực tranh tụng cụ thể,
tiến trình tố tụng để giải quyết yêu cầu của khách hàng để khách hàng được biết
trước khi ký Hợp đồng. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng hiện nay buộc luật sư phải kết
hợp và coi khách hàng như một người cộng sự trong quá trình giải quyết vụ việc
của họ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc luật sư cần có sự nhận thức mới về
quan hệ giữa luật sư với khách hàng.
Đã qua đi cái thời mà khách hàng chẳng hiểu biết và cũng không
cần biết về vụ việc, miễn là giao “trọn gói” cho luật sư thực hiện yêu cầu giúp
đỡ pháp lý của mình. Tham gia tranh tụng hôm nay, luật sư chúng ta cần phải
nhận thức là chúng ta đang “hợp tác” với khách hàng chứ không phải khách hàng
đang “nhờ vả” chúng ta để chúng ta cho mình cái quyền quyết định mọi thứ không
cần hỏi ý kiến khách hàng ngay cả khi họ là những người trình độ văn hoá thấp,
thiếu hiểu biết pháp luật. Cho nên, luật sư trong quá trình trao đổi với khách
hàng cần thông tin thường xuyên về tình hình công việc luật sư đang thực hiện,
đặc biệt cần phải làm cho khách hàng nhận diện bản chất của vụ việc một cách
trung thực, rõ ràng.
(iii) Đổi mới tư duy về quyền con người: Luật sư tham gia
tranh tụng hôm nay phải nhận thức và đổi mới tư duy về quyền con người – bởi
quyền con người luôn được tôn trọng và ngày một nâng cao cho dù thân chủ chúng
ta là bị cáo, người bị hại hay các đương sự. Do vậy, đối với việc tham gia
tranh tụng trong vụ án hình sự luật sư đừng quá lệ thuộc vào kết luận điều tra,
cáo trạng hay quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án mà có tư duy làm sao để
bảo vệ thân chủ tối đa – hãy quyết định đường hướng giải quyết vụ việc trong
nhận thức của luật sư trên cơ sở luật định mặc dù trước đó đã có những chứng cứ
buộc tội, bất lợi cho thân chủ.
Còn trong tố tụng phi hình sự, xu hướng hiện đại cho thấy
các vụ án đều hướng đến vấn đề hoà giải mà không cần tới việc xét xử của Toà
án. Do vậy, đối với tranh tụng phi hình sự, bên cạnh việc quan tâm và bảo vệ
lợi ích tối đa cho thân chủ luật sư phải nhận diện đúng yêu cầu của thân chủ,
bản chất của vụ việc để có sự đánh giá khách quan và hướng thân chủ đến với hoà
giải nếu điều đó cũng là mong muốn của thân chủ, hoặc thân chủ không mong muốn
nhưng việc xét xử sau này sẽ bất lợi cho họ nếu căn cứ theo quy định pháp luật…
Chúng tôi cho rằng một xã hội dân sự có nền tư pháp dân chủ,
văn minh là xã hội không phải có thật nhiều các bản án được tuyên thấu tình,
đạt lý mà phải là xã hội ít tranh chấp, nếu có tranh chấp thì trước tiên phải
được giải quyết bằng con đường hoà giải mà các bên vẫn đạt được quyền lợi cho
mình chứ không chỉ tưu duy theo lối quyền lợi của mình chỉ có thể đạt được khi
có bản án có hiệu lực của cơ quan Toà án. Đây cũng là xu hướng chung hiện nay
được giới luật sư của các nước đang phát triển coi trọng và áp dụng.
(iv) Hoàn thiện kỹ năng tranh tụng: Xu hướng tranh tụng gần
đây và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO buộc chúng ta phải tuân thủ các
cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế, chắc chắn vấn đề tranh tụng công khai tại
phiên toà sẽ là con đường xác định sự công bằng, lẽ phải để tuyên án. Do vậy,
các luật sư cần phải tích cực tham gia, tham dự các phiên toà nhiều hơn để đúc
kết kinh nghiệm cho mình; đồng thời ngoài việc lập sẵn cho mình kế hoạch xét
hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên toà trên cơ
sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa, bảo vệ
của luật sư.
Để làm được điều này, các luật sư cần phải giành thời gian
để tự hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân
chủ. Kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên
toà là những vấn đề bắt buộc luật sư phải quan tâm và xử lý tốt mới giúp luật
sư tự tin. Các luật sư phải đặc biệt quan tâm nhiều hơn kỹ năng của mình đối
với phần tranh luận công khai tại phiên toà. Do vậy bài bào chữa hay bản luận
cứ nên để dưới dạng “mở” có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến
phiên toà chứ không nên theo cách chuẩn bị cổ điển “đóng” bằng cách viết sẵn để
đọc và trình bày trước Hội đồng xét xử.
Luật sư của các nước theo pháp luật Common Law mặc dù chịu
sự điều chỉnh rất lớn của các “án lệ” trước đó, nhưng không vì thế mà họ không
thể hiện tốt kỹ năng tranh luận để bảo vệ tối đa cho thân chủ mình, trái lại
tại các phần tranh luận luật sư luôn là người chủ động, điều khiển phần tranh
luận theo đúng mục tiêu cần đạt tới của mình.
Suy nghĩ về nghề luật sư, chia sẻ với những nghĩ suy của
những luật sư có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề, chúng ta nhìn nhận về nghề
luật sư trong quá khứ để hiểu nghề luật sư hiện tại và hướng tới nghề luật sư
trong tương lai như một nghề cao quý, một nghề được cả xã hội tôn vinh.
(Sưu tầm)
Copy from: https://hungngominh.wordpress.com/2009/11/18/ngh%E1%BB%81-lu%E1%BA%ADt-va-ngh%E1%BB%81-lu%E1%BA%ADt-s%C6%B0/

No comments:
Post a Comment